Thứ Ba, 10 tháng 8, 2010

Bình phẩm về truyện ngắn "Lão Hạc" của tác giả Nam Cao

Phải đến khi truyện Lão Hạc khép lại, ta mới thấy ớn lạnh : thì ra toàn bộ câu chuyện là một cuộc chuẩn bị để chết của một con người ! Lão Hạc cứ âm thầm làm nốt những phần việc cuối cùng của một kiếp người để rồi tự sát ! Vậy mà, cả ông giáo và người đọc đều không hề hay biết. Đó là tình huống độc đáo của thiên truyện.

 Cái chết của lão Hạc là một cú giáng vào thói hồ đồ, hờ hững, cố chấp vẫn cầm tù chúng ta. Khi ta sáng mắt lên, hiểu ra rằng, lúc lão gàn dở nhất chính là lúc lão cao đẹp nhất, rằng tất cả những tính toán, lo liệu lẩn thẩn của lão, thực chất lại chứa đựng một phẩm chất người nguyên sơ, thuần khiết, cao quí vô ngần, thì đã muộn, đã quá muộn rồi ! Bản lĩnh lớn của văn Nam Cao có lẽ là ở đấy. Cứ viết về những cuộc đời nhỏ mọn tầm thường, cứ viết những chuyện vặt vãnh tủn mủn không đâu của cái đời thường tẻ nhạt, ngán ngẩm này thôi, thế  mà có thể dằn vặt cuộc đời, có thể làm đau tất cả chúng ta. Bởi dưới ngòi bút của Nam Cao, cái nhỏ nhặt không đâu vụt trở nên thăm thẳm, cái hàng ngày dễ quên lại chứa đựng cái muôn đời. Phát hiện càng sâu sắc bao nhiêu, càng truyền cảm bấy nhiêu. Viết về cái tầm thường mà làm sống dậy những ý nghĩa không thể xem thường, ấy là giải pháp nghệ thuật độc đáo của văn xuôi Nam Cao vậy.
Tôi không nghĩ rằng thành công của truyện ngắn “Lão Hạc” là chỉ nhờ vào bàn tay của cấu trúc. Nhưng dù sao, ở đây, nó đã thực sự là nhân tố chủ lực. Trước hết là cấu trúc mạch truyện của Lão Hạc được Nam Cao tổ chức theo cái lôgic quanh co quen thuộc của nhận thức ở nhân vật ông giáo. Cứ ngộ nhận rồi vỡ lẽ, rồi lại ngộ nhận, để rồi cuối cùng kết thúc bằng một vỡ lẽ muộn màng hẫng hụt. Rồi việc tạo dựng một cấu trúc cảm hứng- ý tưởng đa tầng để mạch truyện tải trọn vẹn đến bốn chủ đề lớn. Nó khiến cho câu chuyện đơn sơ mà có sức chứa, sức nén không ngờ. Vừa triết luận về vấn đề nhìn đời bằng đôi mắt của tình thương[1], vừa nghiền ngẫm về kiếp sống nhục nhằn của con người trên mặt đất này[2], vừa triết lí về một thế sống trong nhân sinh “không nên hoãn sự sung sướng lại”. Nếu ba “bè” ấy có cơ ép mạch truyện thành luận đề khô cứng, thì cảm hứng lớn hơn, từng ám ảnh suốt đời văn Nam Cao, được chọn làm chủ lưu ở đây đã làm cho tính luận đề mờ hẳn : ấy là cảm hứng khám phá những bí mật của người nông dân[3]. Mà ở điểm này, nhân tố quyết định sự sống còn của chỉnh thể tác phẩm là chiều sâu và sức sống của hình tượng nhân vật chứ không phải sự lôi cuốn của mạch truyện hay cấu trúc ý tưởng và cảm hứng.
Vậy là cái thần, cái hồn của thiên truyện nằm ở lão Hạc. Và tinh hoa của bút lực Nam Cao cũng hội tụ ở nhân vật này thôi ! Mà bút lực ấy, dường như, cũng thể hiện đậm nhất ở việc kiến tạo một cấu trúc hình tượng tinh vi và sống động.
*
Lão hiện ra tự nhiên quá đỗi, cứ như thấy sao tả vậy, chả gia công sắp đặt, bài binh bố trận gì. Mà chắp nối từ toàn những chuyện chẳng đâu vào đâu : nào chuyện đắn đo bán hay không bán con chó vàng vơí mảnh vườn, nào chuyện ốm đau tiêu lạm vào số tiền cóp nhặt, chắt bóp dành dụm cho con, nào chuyện thằng con đi có đến hàng năm chả giấy má gì… được kể nhân khi thuốc lào vặt với hàng xóm, thế thôi. ấy thế mà cứ ra, mới lạ. Lão hiện ra là nhờ một cấu trúc hình tượng bí mật và hoàn hảo. Đó là một mạng quan hệ được giấu kín sau cái vẻ vẩn vơ tuỳ tiện, mà thực ra lại tinh vi tựa hồ “mạng vi mạch”. Mỗi quan hệ là một luồng sáng. Các luồng tụ về từ khắp phía, giúp ngòi bút làm rạng ngời lên chân dung lão Hạc. Lão được mô tả trong tương quan với ông giáo, là để làm nổi bật cái tâm lí nông dân bên cạnh tâm lý trí thức. Tương quan với Binh Tư để tạo ra một đối chọi gay gắt : một người lương thiện đến thánh thiện, một người bất lương đã thành lưu manh ; người này muốn trọn đạo làm người thì phải chết, kẻ kia cố bám lấy cái sống thì đã phải lỗi đạo làm người. Trong tương quan với vợ ông giáo, con người lão Hạc lại sáng lên ở bình diện khác : người này dù khổ có đến thế nào vẫn cứ vị tha, người kia vì quá khổ đã ra vị kỉ. Dầu sao, những luồng sáng kia cũng dễ mờ nhạt, không thật đáng kể, nếu thiếu hai tương quan cuối cùng : với đứa con trai và, nhất là,với con chó vàng.
Với đứa con trai duy nhất, Nam Cao đã làm sáng lên ở người cha xác xơ còm cõi này một tình phụ tử nguyên sơ và vĩnh cửu. Hoàn cảnh cùng cực đẩy lão đến trước một lựa chọn nghiệt ngã : muốn sống thì phải bán mảnh vườn, còn muốn giữ mảnh vườn thì phải chết. Nói khác đi, muốn sống thì phải lỗi đạo làm cha, còn muốn trọn đạo làm cha thì phải chết. Bởi mảnh vườn là thứ duy nhất đáng giá lão đã cố gìn giữ, chẳng dám tơ hào, gọi là chút tài sản mà bù chì tạo lập cho giọt máu duy nhất mình để lại bơ vơ trên cõi đời này. Không phải lão không biết quí sinh mệnh của mình. Song, có một thứ, lão còn quí hơn, ấy là đạo làm cha. Đối với lão, dường như, sống chỉ có một nghĩa : sống cho con ! Thế là lão đã quyên sinh. Thà chết chứ quyết không phạm vào cái mà mình đã dành cho con. Cái chết của lão khiến ta đau đớn nhận ra tình phụ tử mộc mạc ấy mới thăm thẳm, mới thiêng liêng làm sao !Nó xui ta nhớ đến cha con Chử Cù Vân và Chử Đồng Tử. Người cha chí tình khi hấp hối cứ một mực dành cho con cái khố độc nhất, mình chết có vùi không vào đất lạnh cũng xong, còn người con chí hiếu thì thà không khố chứ quyết không thể vùi thây cha không một mảnh vải. Thì ra cái dòng máu ấy vẫn chảy âm thầm và bền bỉ trong trái tim mỗi người cha Việt Nam suốt mấy nghìn năm nay. Nó là một vẻ đẹp bất diệt của dân tộc này.
Nhưng nếu không có con chó vàng, có lẽ, truyện “Lão Hạc” không thể nào cảm động và sâu xa đến thế. Dùng con vật như một đối sánh để khắc hoạ tính cách con người không còn là thủ pháp xa lạ nữa. Trở đi trở lại trong nhiều tác phẩm Nam Cao, con chó đã thực sự là một chi tiết nghệ thuật đắt giá[4]. Vậy mà ám ảnh hơn tất cả, vẫn là Cậu Vàng của ông lão này thôi. ở đây con chó nào đâu chỉ sắm một vai truyện. Cậu vàng còn như một phần của lão Hạc. Liệu có thể hình dung đầy đủ về lão Hạc được không nếu thiếu đi con chó ấy ? Rõ ràng Nam Cao có dụng ý đối chiếu lối sở hữu của anh trí thức với người nông dân xung quanh con chó này. Ông giáo vô cùng quí những cuốn sách của mình. Nhưng với ông giáo, sách chỉ là những kỉ vật về một thời đầy mơ ước, và cũng chỉ thế thôi. Con chó vàng với lão Hạc thì có biết bao ý nghĩa. Nó là một tài sản (lão lẩm nhẩm qui ra tiền), là một vật nuôi (định bụng lúc cưới thằng con sẽ thịt), nó còn là kỉ vật của đứa con trai, mối dây liên lạc lạ lùng vừa hữu hình vừa vô hình giữa lão với đứa con vắng mặt. Tuy nhiên, phát hiện sâu sắc đến kì lạ của Nam Cao, vẫn là ở tư cách thứ tư của nó : một thành viên trong cái gia đình cô quạnh của lão. Có một đứa con độc nhất thì đã bỏ lão mà đi. Sống trơ trọi trong một tuổi già lạnh lẽo, lão có nhu cầu rất tự nhiên : được làm cha, làm ông nội. Có bao nhiêu tình cảm chất chứa trong lòng, lão dồn hết vào con chó. Lão coi nó như một đứa con, rồi chăm chút cưu mang như một đứa cháu nội bé bỏng côi cút : lão bắt rận, tắm, trò chuyện âu yếm, lão gọi nó là “Cậu Vàng như bà hiếm hoi gọi đứa con cầu tự”, lão mắng yêu, lão cưng nựng, dấu dí… Cứ thế, ranh giới của sự phân đẳng người – vật(chủ sở hữu và vật bị chiếm hữu) đã bị xoá nhoà tự bao giờ. Dường như vật nuôi đã được người hoá. Kiểu quan hệ thông thường đã chuyển hoá thành thứ tình cảm thiết thân, máu thịt. Có phải đó là một bản tính tự nhiên xa xưa của loài người ? Bản tính ấy được và chỉ được bảo tồn nguyên vẹn trong những người như lão Hạc ? Và xem ra, chỉ khi nào con người tìm đến với những vật nuôi như Cậu Vàng kia để chia sẻ và nương tựa y như một đồng loại, khi ấy con người mới trở về với bản tính cội nguồn, về với cách sống nhân đạo. Lão Hạc đã đến với con chó vàng như thế. Cũng vì thế mà khi cuộc sống tàn ác buộc lão phải chà đạp, phải thủ tiêu quan hệ tình cảm này, lão đã rơi vào bi kịch. Lúc cùng đường, buộc phải trả con chó trở lại địa vị thông thường của một vật nuôi, một tài sản, nghĩa là xoá bỏ tư cách một kỉ vật, một thành viên, đối với lão là một tội hình không thể tha thứ. Lão coi đó là tội lừa gạt, phản phúc ! Lão đã đau đớn, đã khóc như một đứa trẻ con. Lão đã xưng tội trước ông giáo, những mong làm dịu bớt nỗi cào xé tâm can. Khi người già khóc bằng những giọt nước mắt hồn nhiên của con trẻ, thì đó là lúc bản tính người nguyên sơ đang thức dậy. Đó là những giọt nhân tính thanh khiết nhất mà cuộc vật lộn sinh tồn cứ lăm le cướp nốt của mỗi chúng ta ! Rồi thì lão cũng dịu đi. Nhưng không hẳn vì những lời an ủi của ông giáo. Nó tạm yên, chủ yếu vì lão cũng đang đi đến cái chết đó thôi. Và thật kinh khủng, trên đời có bao nhiêu cách chết, vậy mà lão đã chọn cách chết ấy. Lão đã tự đánh bả chính mình để chết cái chết của một con chó. Dường như lão muốn chuộc tội trước con chó vàng yêu dấu, bằng cách trừng phạt mình một cách đau đớn nhất ? Có như thế, lão mới thanh minh được với Cậu Vàng của lão. Chao ôi ! Có ngẫu nhiên không, khi kết cục với Cậu Vàng là thằng Mục và thằng Xiên đè nó, kết cục đến với lão Hạc cũng là hai kẻ lực lưỡng đè trên lưng, còn lão thì rũ rượi vật vã, sùi bọt[5] ? Một tương quan thật tàn nhẫn, thật cay đắng ! Con chó không chỉ giúp Nam Cao làm hiện lên nguyên vẹn tính người tự nhiên sâu thẳm trong lão Hạc. Đằng sau đó, Nam Cao còn kín đáo kí thác một triết lí đau buồn về thân phận trớ trêu của con người trên mặt đất này.
*
Khá nhiều truyện ngắn thành công nhờ đã vay mượn “tố chất” của các thể loại khác : chất trữ tình của thơ, xung đột gay gắt của kịch, kích cỡ hoành tráng của sử thi, liên tưởng phóng túng của tuỳ bút, rồi thì chất sử kí, chất cổ tích v.v… Thật là muôn hình vạn trạng ! Còn “Lão Hạc” thì cảm động ngay trong tính văn xuôi của mình. Tính nghệ thuật của lời văn Nam Cao lại chính ở chỗ nó đã được tước đi mọi trang sức. Riêng ngôn ngữ nhân vật không thôi đã đủ thấy vẻ đẹp của lối văn ấy. Lời lão Hạc là sự lên tiếng của tính cách, của giọng điệu, của tâm lí nông dân vốn nặng những lo toan, tính đếm, kể lể, cà kê… Nhiều câu tưởng rất bâng quơ, lạc điệu so với mạch đối thoại, khiến nó có cái vẻ lẩn thẩn, lẩm cẩm rất riêng. Nhưng thực ra nó che giấu một mạch ngầm. Nó gần giống với cái vẫn được gọi là “tảng băng trôi” của Hemingway. Thành thử lời gàn gàn, lẩn thẩn lại là những trao gửi, uỷ thác khôn ngoan nhất của một người sắp đi vào cái chết. ấy là những lời mà độ dư vang của nó không cảm nhận được tức thời. Nó vang lên ở không gian khác. Chỉ khi truyện kết thúc ta mới thấy được tiếng vọng chực nhói lên của nó. Ví như “Được ạ, tôi đã lo liệu đâu vào đấy… thế nào rồi cũng xong”. Lúc lão nói, ta chỉ cảm được cái bề nổi là lời xuê xoa cho ông giáo yên lòng để việc mình nhờ êm trôi chót lọt. Đến khi truyện khép lại, thì hoá ra, “Được ạ… thế nào rồi cũng xong” chính là ám chỉ cái chết mà lão đang ngấm ngầm định liệu cho mình. Những lời ấy chợt mở ra cái thế giới cao đẹp đầy dữ dội và hết sức cô đơn của lão Hạc. Nó chưa từng được cảm thông ! Đến khi cảm thông được thì đã muộn mất rồi. Nó chỉ còn khiến ta day dứt dằn vặt, không buông tha cho lòng ta. Khả năng truyền cảm kì lạ của văn xuôi Nam Cao là thế. Nó không phải là văn nữa. Nó là đời.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét