Thứ Bảy, 14 tháng 8, 2010

Phân tích

Năm nay chúng ta kỷ niệm 170 năm ngày sinh của Nguyễn Đình Chiểu với tất cà sự ngưỡng mộ và tấm lòng tôn kính tài năng đặc đã và sự cống hiển to lớn của nhà thơ cho sự phát triển nền văn hóa nước nhà trong suốt mấy thập kỷ kể từ giữa thế kỷ XIX Nguyễn Đình Chiểu có được sự ngưỡng mộ và tôn kính ấy của bao nhiêu thế hệ kể cả thể hệ ngày nay và thế hệ đã qua là do di sản thơ văn của ông để lại cho đời sau và những giá trị tinh thần tỏa ra từ những áng thơ văn đó.


Chính những giá trị cao đẹp ấy là kết quả của cả một cuộc đời lao động trí óc nghiêm túc, say mê, tràn đầy nghi lực và không biết mỏi của Nguyễn Đình Chiểu. Không có một cuộc đời lao động như vậy, thì không thể nói gì đến những thành công trên địa hạt văn học và tư tưởng. Nhưng một trong những bí quyết tạo nên những thành công của Nguyễn Đình Chiểu, một nguồn gốc chủ yếu của những giá trị cao đẹp trong di sản thơ văn của ông, chính là lòng thương dân vô hạn và sự gắn bó suốt đời với nhân dân của Nguyễn Đình Chiểu, nhất là quan điểm và lập trường của nhân dân khi ông xem xét và giải quyết mọi vấn đề. Nhân dân đã đùm bọc, cưu mang giúp đỡ ông lúc hoạn nạn, đồng thời đã tạo ra những điều kiện và môi trường thích hợp cho tài nàng và trí tuệ của ông nảy nở. Đối với ông, nhân dân lao động như một bà mẹ thần kỳ, chẳng những đem lại cho ông một cuộc sống mãnh liệt, hữu ích và đầy ý nghĩa, mà cỏn chắp cho ông đôi cánh đủ sức bay tới những đỉnh cao của trí thức và nghệ thuật. Đó là một sự thật hiển nhiên mà ta có thể dễ dàng nhận thấy qua mấy biểu hiện sau đây trong tác phẩm của Nguyễn Đình Chiểu:


I.


Từ truyện thơ Lục Vân Tiên


Trong truyện Lục Vân Tiên, Nguyễn Đình Chiểu đã dựng lên cả một xã hội trong đó những nhân vật chính diện tiêu biểu là Lục Vân Tiên và Kiều Nguyệt Nga đã tượng trưng cho tài năng, trí tuệ, nhân phẩm của con người. Đó là những con người học rộng, tài cao. Tuy mỗi người mỗi vẻ, mỗi nét mặt khác nhau, nhưng họ đều là những người "cương trực", "khẳng khái", "vị tha" và “trọng nghĩa hiệp". Họ sẵn sàng cứu giúp người khác không sợ khó khăn nguy hiểm và nêu cao cái nghĩa khí “giữa đường gặp sự bất bình chẳng tha". Họ kiên trì đứng về lẽ phải mà suy nghĩ và hành động. Những đặc tính cao đẹp đó cững chính là những đức tính cơ bản của con người Việt Nam nói chung và của nhân dân Nam Bộ nói riêng. Những đặc tính đó đã hình thành và củng cố trên trường kỳ lịch sử nhất là trong quá trình dân tộc ta khai phá và mở mang mảnh đất miền Nam của Tổ quốc, cho nên nó đặc biệt thể hiện rõ nét ở nhân dân Nam Bộ. Những đặc tính đó không những đã được phản ánh trong văn học dân gian mà còn được khẳng định trong sử sách.


Ở những nhân vật chính diện của truyện Lục Vân Tiên, Nguyễn Đình Chiểu đã miêu tả phẩm chất đẹp đẽ của con người biểu hiện trong các mối quan hệ cha con, vợ chồng, bè bạn, thầy trò... Họ đã ăn ở, giao tiếp và đối xử với nhau thật là trọn tình vẹn nghĩa, thủy chung. Tinh nghĩa và lòng thủy chung đó chính là tình cảm đạo đức hồn nhiên trong sáng và lành mạnh vốn nảy sinh từ trong cuộc sống giản dị của nhân dân lao động.


Hơn nữa trong cuộc đời thực, quần chúng lao động còn có một cách nhìn lạc quan ở tương lai, một niềm tin vào sự thắng lợi của lẽ phải, của tài năng và nhân phẩm con người. Lẽ dĩ nhiên dưới chế độ phong kiến, quân chúng lao động không tránh khỏi những giới hạn của lịch sử, cho nên cái nhìn lạc quan và niềm tin của họ thường gần với quan niệm ác giả ác báo, thiện giả thiện báo. Do bị áp bức và bóc lột, họ rất mong muốn được giải phóng, mong muốn mọi người ở hiền gặp lành và chính nghĩa nhất định sẽ thắng, đồng thời những kẻ bạc ác cuối cùng phải đền tội.


Tiến trình phát triển của sự việc và của những tình tiết trong truyện Lục Vân Tiên đã diễn ra theo đúng như cái nhìn lạc quan và niềm tin như vậy của quần chúng.


Hai nhân vật chính là Lục Vân Tiên và Kiều Nguyệt Nga gặp bao nhiêu tai nạn và trắc trở trên đường đời, nhưng cuối cùng họ đã vượt qua tất cả để đi đến hạnh phúc.


Tóm lại, nhân dân lao động được phản ánh trong truyện Lục Vân Tiên với tất cả đặc tính và phẩm chất, sức mạnh và niềm tin của họ. Đó chính là một thành công tuyệt mỹ trong lịch sử văn học nước ta. Bởi vì trước Nguyễn Đình Chiểu, ở nước ta chưa có một nhà văn nhà thơ nào, kể từ đại thi hào Nguyễn Du cho đến các tác giả của những truyện nôm bình dân và truyện nôm bác học, lại miêu tả được sâu sắc, đa dạng tính cách của quần chúng nhân dân như truyện thơ Lục Vân Tiên. Nếu trước Nguyễn Đình Chiểu, hình ảnh và tính cách của quần chúng lao động mới xuất hiện một cách lẻ loi thưa thớt, thì với tác phẩm Lục Vân Tiên quần chúng lao động được miêu tả một cách tập trung trên nhiều khía cạnh. Những đặc tính và phẩm chất của họ không chỉ biểu hiện ở một hoặc hai nhân vật mà ở một loạt các nhân vật như Lục Vân Tiên, Kiều Nguyệt Nga, Hớn Minh, Vương Tử Trực, ông Ngư, ông Triều, ông Quán, Tiểu đồng... Điều đó chứng tỏ rằng, nhân dân lao động kể cả những người trí thức gắn bó với họ đã từ cuộc đời thực bước vào truyện thơ của Nguyễn Đình Chiểu như một lực lượng xã hội đông đảo, hùng hậu. Chính lực lượng xã hội này đã báo trước tinh thần kháng chiến anh dũng của nhân dân miền Nam khi thực dân Pháp đặt chân tới. Nhìn thấy sức mạnh của lực lượng xã hội này, đó chính là một cống hiến vô cùng quý giá của Nguyễn Đình Chiểu vào kho tàng văn hóa của dân tộc.


Với một nội dung có tính nhân dân sâu sắc như vậy, với một hình thức giản dị phù hợp với nếp suy nghĩ của quần chúng và với một ngôn ngữ trong sáng được nâng cao từ tiếng nói thân thuộc hàng ngày của họ, truyện Lục Vân Tiên đã được đông đảo quần chúng say mê ưa thích. Họ vô cùng sung sướng và xúc động khi tìm thấy ở trong truyện những hình ảnh, những tính cách giống vởi bản thân mình. Do đó mà các nhân vật trong truyện sống mải trong tâm trí của đông đảo nhân dân qua bao nhiêu thế hệ. Giá tri tuyệt vời của truyện Lục Vân Tiên chính là ở chỗ đó.


Sở dĩ truyện Lục Vân Tiên có những giá trị tuyệt vời ấy và Nguyễn Đình Chiểu thành công khi viết tác phẩm này, là vì ông có một sự hiểu biết sâu rộng và nhiều mặt về đời sống của nhân dân nhất là đời sống của người nông dân miền Đồng Nai, Gia Định. Ông không những thấy rõ nét mặt, dáng điệu, cử chỉ, hành vi của họ mà còn hiểu được tâm tư, nguyện vọng thầm kín của họ, hơn nữa có một lối nhìn và giải quyết vấn đề bắt nguồn từ tâm lý và niềm tin của họ.


Nhưng không phải là ngẫu nhiên mà Nguyễn Đình Chiểu lại có được vốn hiểu biết về nhân dân cũng như có một trái tim và lập trường đồng diệu với nhân dân như thế. Chính cuộc sống của ông đã đưa lại cho ông tất cả những thứ qúy giá ấy. Đó là một cuộc sống của nhân dân.


Cuộc sống của Nguyễn Đình Chiểu bắt đầu từ một gia đình nhà nho nghèo mà cha mẹ của ông có nhiều liên hệ và gắn bó thân thiết với nhân dân. Qua sự giáo dục của người cha ngay thẳng và nhất là của người mẹ dịu hiền, ông đã trực tiếp nhận được dòng sữa tinh thần của nhân dân để mở mang đần trí óc của mình từ những ngày thơ bé. Khi tật đui mù và bao nhiêu tai họa liên tiếp đến với ông, thì trong hoàn cảnh éo le và đau xót này, nhân dân lao động như một bà mẹ hiền nâng ông dậy và dang rộng cánh tay ra đón nhận người con bất hạnh của mình. Từ đây cả cuộc đời của Nguyễn Đình Chiểu, từ việc ăn ở cho đến việc lấy vợ sinh con, từ công việc làm thuốc, dạy học cho đến việc sáng tác thơ ca, đều điều hành trong sự giúp đỡ, cứu mang, đùm bọc và trìu mến của nhân dân. Nghề dạy học và bốc thuốc giúp ông sinh sống nhưng cũng lại tăng thêm sự giao tiếp của ông với các từng lớp người trong xã hội. Nhờ đó mà tri thức của ông được nhân lên gấp bội và ông có đầy đủ những vốn liếng cần thiết để sáng tạo nên những hình tượng bất hủ trong truyện Lục Vân Tiên.


II


Nguồn gốc của sự nhận thức về cuộc kháng chiến cứu nước và vai trò của nhân dân trong cuộc kháng chiến đó.


Khi thực dân Pháp xâm lược nước ta, Nguyễn Đình Chiểu bước vào cuộc kháng chiến cứu nước, cũng với cách nhìn nhận sự việc lành mạnh và dứt khoát như ông đã thể hiện trong truyện thơ Lục Vân Tiên. Trong những giờ phút thứ thách này của lịch sử, nhận thức và lập trường của ông đã đứng vững, phát triển và vươn tới đỉnh cao của thời đại.


Trước hết sự nhìn nhận của ông về cuộc kháng chiến cứu nước thấm đượm một chủ nghĩa yêu nước thiết tha sôi nổi. Đó là chủ nghĩa yêu nước được xây dựng trên nền tảng của lòng thương dân vô hạn, một lòng thương dân đã hình thành trong suốt cuộc đời gần gũi và gắn bó của ông với nhân dân. Đây không phải là lòng thương dân của những người trí thức qúy tộc có thiện ý nghiêng mình xuống thông cảm với quần chúng nghèo khổ ở phía dưới, mà thực sự là lòng thương dân của một người trí thức cùng cảnh ngộ, cùng lập trường và quan điểm với nhân dân.


Càng thương dân, Nguyễn Đình Chiểu càng yêu nước da diết, càng đau xót khi giặc Pháp dày xéo lên mảnh đất quê hương, tàn phá xóm làng và gây ra bao cảnh đau thương tang tóc cho nhân dân:


Tan chợ vừa nghe tiếng súng Tây

Một bàn cờ thế phút sa tay
Bỏ nhà lũ trẻ lơ xơ chạy
Mất ổ bày chim dáo dát bay
Bến Nghé cửa tiền tan bọt nước
Đồng Nai tranh ngói nhuộm mầu mây

Ở Nguyễn Đình Chiểu lòng yêu nước thương dân luôn luôn gắn liền với lòng căm thù địch sâu sắc và thái độ kiên quyết đánh giặc. Là người trí thức thông cảm với mọi nỗi đau khổ của nhân dân trong chiến tranh, Nguyễn Đình Chiểu càng thấy rô những tội ác "trời không dung đất không tha" của bọn thực dân Pháp. Có thể nói, ngay từ khi chúng đặt bàn chán xâm lược lên miền Nam của đất nước ta, thì những hành động khủng bố dã man, cướp bóc trắng trợn, đầu độc thâm hiểm của chúng đã bị Nguyễn Đình Chiểu lên án một cách nghiêm khắc, quyết liệt. Đây là lần đầu tiên trong lịch sử, một kẻ thù mới mẻ của dân tộc ta bị tố cáo với những bằng chứng xác thực. Chỉ riêng điểm đó cững đủ chứng tỏ nhận thức của Nguyễn Đình Chiểu vượt xa các sĩ phu đương thời, nhất là các sĩ phu nắm quyền trong triều Nguyễn. Đối với ông, không thể có một sự chung sống yên ổn hoặc một sự nghị hòa vô nguyên tắc nào giữa bọn giặc nước và nhân dân ta đang lâm vào cảnh nước mất nhà tan. Ông nhấn mạnh rằng:


Trời Đông mà gió Tây qua

Hai hơi ấm mát chẳng hòa đau dân.

Đứng trước mối mâu thuẫn gay gắt ấy, thái độ của Nguyễn Đình Chiểu là kiên quyết đứng về phía nhân dân, đứng trên lập trường bảo vệ độc lập của tổ quốc để chống lại bọn thực dân xâm lược. Theo ông, việc nhân dân cầm vũ khí chống giặc để bảo vệ quê hương, làng xóm là một điều tất nhiên hợp với đạo lý. Bởi vì trước mắt người dân mất nước chỉ còn một con đường sống là nắm chắc "cây thương phá Lỗ" và "giáo tre ngàn dặm đánh Tây".


Là người biểu dương đường lối võ trang chiến đấu ấy, Nguyễn Đình Chiểu đã tán thành chủ trương nghịch mệnh triều đình và đi với nhân dân để chống giặc của Trương Định. Ông nhận thấy rằng, trong cuộc kháng chiến này, lòng dân, ý chí chiến đấu cho độc lập dân tộc của nhân dân là tiếng gọi thiêng liêng nhất đối với người chiến sĩ ngoài mặt trận kể cả những thủ lĩnh của họ. Đó là lập trường đúng đắn của Nguyễn Đình Chiểu về cuộc kháng chiến cứu nước. Lập trường ấy của ông không hề dao động, mặc dù trong chiến đấu có thể gặp nhiều tổn thất, thậm chí phải hy sinh cả tính mệnh.


Nguyễn Đình Chiểu tin tưởng một cách sâu sắc rằng sự nghiệp kháng chiến cứu nước của dân tộc ta là một sự nghiệp “chí nhân đại nghĩa" hoàn toàn phù hợp với lẽ phải và lương tầm của con người, cho nên cuối cùng sẽ giành được thắng lợi. Vì thế ông khao khát trông đợi ngày giải phóng nhân dân khỏi nanh vuốt của quân thù như "hoa cỏ ngùi ngùi ngóng gió Đông". Và ngay trong những ngày đen tối nhất của lịch sử, khi mà quân thù đã chiếm cứ nhiều vùng đất đai của tổ quốc, ông vẫn còn thiết tha hy vọng:


"Ngày nào trời đất an ngôi cũ

Mừng thấy non sông bắt gió Tây

Niềm tin và hy vọng của Nguyễn Đình Chiểu ở đây tuy chưa phản ánh được quy luật khách quan của cuộc chiến tranh chống đế quốc nhằm bảo vệ độc lập dân tộc của nước ta hồi cuối thế kỷ XIX, nhưng rõ ràng đó là niềm chân thành và lành mạnh của quần chúng. Nó có tác dụng cổ vũ tinh thần chiến đấu của nhân dân ta lúc đương thời.


Nhưng điểm thành công nhất trong sự nhận thức của Nguyễn Đình Chiểu chính là ở chỗ ông đá nhìn thấy sức mạnh của nhân dân trong cuộc kháng chiến cứu nước. Ông đã giành những áng thơ văn hùng hồn sôi nổi và chói lọi nhất để nói về những chiến sĩ vốn là những người nghèo khổ lam lũ xuất thân từ "dân ấp dân lân". Ông diễn tả và ngợi ca một cách đầy nhiệt tình tinh thần anh dũng và tư thế lẫm liệt của họ trên chiến trường. Dưới con mắt của ông, những nông dân nghèo khổ ấy không phải chỉ là những người đáng yêu, những người ủng hộ và tham gia kháng chiến, mà còn là động lực chủ yếu của công cuộc cứu nước và là những chiến sĩ kiên cường nhất trong chiến đấu. Có thể nói, quan điểm nhân dân, nhất là quan điểm về vai trò của nhân dân trong chiến tranh cứu nước ở Nguyễn Đình Chiểu đã đạt tới một đỉnh cao. Bởi vì các thế hệ trước và đương thời nhiều lắm cũng mới chỉ nhận thấy nhân dân là lực lượng hậu thuẫn và là một thành phần tham gia vào cuộc chiến tranh đó.


Tóm lại, sự nhìn nhận của Nguyễn Đình Chiểu về cuộc kháng chiến cứu nước của dân tộc ta hồi cuối thế kỷ XIX, tuy không tránh khỏi những hạn chế của lịch sử, nhưng đó là một sự nhìn nhận tiến bộ. Nó đã thực cự góp phần thúc đẩy và nâng cao sự nhận thức của người đương thời về những vấn đề cấp bách của sự nghiệp cứu nước.


Sự nhìn nhận đó của Nguyễn Đình Chiểu cững là sự tiếp tục và phát triển thêm một bước những nhận thức của ông đã thể hiện trong tác phẩm Lục Vân Tiên về những quan hệ xã hội và nhân cách của con người, cũng như về sức mạnh và phẩm chất cao đẹp của nhân dân. Nhưng khi thực dân Pháp xâm lược nước ta, với quan điểm lập trường nhân dân và với lòng yêu nước thương dân vô hạn, ông đã nêu lên được những kiến giải tích cực về ý nghĩa và mục tiêu của cuộc kháng chiến chống Pháp. Nhất là ông cũng thấy rõ vai trò quan trọng và khí phách anh hùng của nhân dân trong cơn thử thách ác liệt của chiến tranh.


Chỉnh trong cơn thử thách này của lịch sử, quan điểm và lập trường nhân dân của Nguyễn Đình Chiểu được củng cố. Ông càng gắn bó với nhân dân, càng chung vai sát cánh với nhân dân trong cuộc chiến đấu chống Pháp. Ông đã cùng nhân dân chạy giặc cùng nhân dân kháng chiến. Ông không những chống giặc bằng ngòi bút mà còn liên lạc với đốc binh Là, với Trương Định và tham gia vào những hoạt động trong chiến đấu của nhân dân. Nỗi thống khổ của nhân dân trong cơn binh lửa, cũng như bước tiến quân và tiếng kèn xung trận của nghĩa quân luôn luôn vang động trong trái tim và khối óc của Nguyễn Đình Chiểu. Cuộc chiến đấu oanh liệt của nhân dân đã đem vào trong tư tưởng của ông có khi thế mạnh mẽ, cái sức sống quật cường của một dân tộc trong lúc hiểm nghèo. Như vậy là do gắn mình với cuộc chiến đấu của nhân dân và kiên định lập trường nhân dân mà Nguyễn Đình Chiểu đã tự xác định cho mình một thái độ đúng đắn, một tình cảm trong sắng, một nhận thức tương đối chính xác về cuộc đấu tranh chống xâm lược ở nước ta lúc đương thời.


III


Quan điểm và lập trường vận dụng các khái niệm của Nho giáo.


Nguyễn Đình Chiểu xuất thân từ một gia đình nhà Nho và được đào tạo dưới môi trường Nho học. Ông lại sống dưới chế độ phong kiến triều Nguyẫn, một triều đại tôn sùng Nho giáo đến tột mức. Trong tình hình ấy, Nguyễn Đình Chiểu không thể tránh khỏi sự ràng buộc của hệ tư tưởng Nho giáo, càng không thể không vận dụng các khái niệm của Nho giáo để diễn đạt tư tưởng của mình. Nhưng điều đáng lưu ý là ông đã đưa một nội dung đầy tính nhân dân và dân tộc vào trong các khái niệm của Nho giáo. Vì thế mà ở ông những khái niệm đó mất dần những yếu tố tiêu cực và hấp thụ được thêm nhiều yếu tố tích cực có ích cho nhân dân trong cuộc sống lao động và chiến đấu bào vệ tổ quốc.


Đối với Nguyễn Đình Chiểu, khái niệm nhân nghĩa biểu thị một lòng thương người mênh mông sâu thẳm như đại dương. Mà lòng thương người của Nguyễn Đình Chiểu trước hết là thương dân, nhất là dân nghèo khổ, là thương những người dân lương thiện mà lại bất hạnh và bị chà đạp. Đến những người ăn mày là những người cùng cực nhất của xã hội không ở ngoài lòng nhân ái của ông:


Đứa ăn mày cũng trời sinh

Bệnh còn cứu đặng thuốc dành cho không

Nguyễn Đình Chiểu còn đặc biệt dành một tình thương sâu sắc cho những người có tài đức, có khi tiết trong sạch nhưng lại không được triều đình trọng dụng, hoặc bị oan uổng hay gặp tai nạn. Đó là trường hợp của các nhân vật lịch sử như Nguyên Lượng, Nhan Uyên, Hàn Dũ... hoặc những nhân vật mà ông sáng tạo ra trong truyện thơ của mình như Vân Tiên, Nguyệt Nga, Kỳ Nhân Sư... Còn khái niệm "nghĩa" của nho giáo khi được Nguyễn Đình Chiểu vận dụng lại càng có những thay đổi lớn về mặt nội dung, càng thể hiện những giá trị đạo đức đầy sức sống trong quan hệ phong phú giữa nhân dân lao động. Các nhân vật chính diện của Nguyễn Đình Chiểu từ Nguyệt Nga, Vân Tiên đến Hớn Minh, Tiểu đồng... đều là những con người hành động vì nghĩa một cách tự giác và đầy nhiệt tình.


Nhìn một cách tổng quát, khái niệm nhân nghĩa do Nguyễn Đình Chiểu vận dụng vì gắn liền với những yêu cầu của nhân dân và của thời đại, cho nên nó đặc biệt được ông nhấn mạnh trên hai ý nghĩa cơ bản: một là nhân nghĩa phải biểu hiện thành việc làm điều thiện nhằm cứu giúp người khác ra khỏi khó khăn, hoặc bảo vệ hạnh phúc của người khác trong cơn nguy biến. Hai là nhân nghĩa phải góp phần duy trì sự hòa thuận êm đẹp trong gia đình và bảo vệ cuộc sống yên vui trong độc lập và tự do của đất nước, trước hết là bảo vệ tổ quốc khi có giặc ngoại xâm. Cho nên:


Mến nghĩa bao đành làm phản nước

Có nhân nào nỡ phụ tình nhà

Ngoài khái niệm nhân nghĩa, Nguyễn Đình Chiểu còn đề cập đến nhiều khái niệm khác của Nho giáo như “trung hiếu”, “tiết hạnh”. Ông quan niệm rằng đạo trung quân là cần thiết cho mọi người. Nhưng ông đòi hỏi một ông vua được mọi người tôn thờ phải là ông vua hiền tài thương dân yêu nước. Ông vua ấy phải tượng trưng cho hạnh phúc của nhân dân và nền độc lập tự chủ của đất nước.


Ở Nguyễn Đình Chiểu, khái niệm trung thường gắn với khái niệm hiếu. Nhưng qua sự vận dụng của ông, khái niệm hiếu của Nho giáo cũng do ông nhắc và trở nên gần gũi với nhân dân hơn. Hiếu ở ông là lòng biết ơn, tốn kính cha mẹ, là trách nhiệm trông nom săn sóc cha mẹ với tất cả tình cảm sâu nặng của người con.


Sự vận dụng mấy khái niệm Nho giáo trên đây ở Nguyễn Đình Chiểu cũng đủ chứng minh rằng, ngay khi Nho giáo đã lỗi thời, một người trí thức đứng trên quan điểm và lập trường nhân dân vẫn có khả năng đưa vào những khái niệm của Nho giáo những giá trị cao đẹp vốn nảy sinh trong cuộc sống của đông đảo quần chúng lao động.


Ngày nay, đọc lại những tác phẩm của Nguyễn Đình Chiểu, chúng ta hết sức trân trọng những thành công mà ông đã đạt được nhưng cũng cảm thấy một cách thấm thía rằng, chính những thành cũng đó, chính những giá trị cao đẹp trong thơ văn của ông có liên hệ mật thiết với quan điểm lập trường nhân dân và lòng yêu nước thương dân vô hạn của ông, nhất là có liên hệ cuộc đời gắn bó với nhân dân của ông. Mối liên hệ đó là một bài học vô cùng quý giá về sự thành công của người trí thức, mọt bài học đến bây giờ vẫn còn nóng hổi và có ý nghĩa thời sự.

Người ấy sống mãi trong lòng tôi

Hôm nay khi tình cờ vô mạng, tôi bất ngờ đọc được một bài văn của một học sinh lớp 8, được nhà phê bình Phạm Xuân Nguyên đánh giá "xúc động vì lời lẽ chân thực và giản dị" mà lại bị cô giáo phê là "lạc đề" và cho một điểm 4. Nguyên nhân là do đề bài yêu cầu viết về "Người bạn ấy sống mãi trong lòng tôi" và cậu bé đã viết về một con mèo mà cậu cho là "người bạn thân nhất" của mình...





Con Miu xấu số!

Năm nay bố mẹ cho tôi về ở hẳn nhà bà ngoại và chuyển đến học ở Trường ĐN. Xa trường cũ QM sau 7 năm học, tôi cũng buồn lắm. Nhiều khi ngồi học mà những thằng bạn trong nhóm “G5” cứ hiện lên trong đầu óc tôi. Tôi nhớ thằng Phương ma lanh, lúc nào cũng ăn mặc gọn ghẽ như người lớn, luôn đầu têu đủ trò, được cái học hành cũng chẳng đến nỗi nào. Cả một mùa hè, cậu ta toàn nói dối xin được tiền bố mẹ đi học bơi ở Công viên Tuổi Trẻ, nhưng chỉ là để đãi bọn tôi ăn kem. Còn thằng Quỳnh hiền lành, nhút nhát, toàn bị đám con gái trong lớp bắt nạt. Thằng Quân học thì lười, mà chỉ mong sinh nhật để bố mẹ tặng quà. Thằng Dụ to xác nhất lớp, tốt bụng, nhưng đầu óc thì u mê, có mấy câu hỏi kiểm tra môn Đạo đức mà học mãi không thuộc… Rồi còn mấy đứa con gái cùng lớp, hay ăn quà, miệng lúc nào cũng bóng nhẫy, nhưng mà cũng tình cảm.

Lần tôi nghịch, vẽ bậy lên áo đứa bạn ngồi bàn trước, bị cô giáo phạt đuổi học một buổi, thế mà chúng nó cũng bày đặt thăm hỏi, thư từ… Mỗi lần tôi buồn, nhớ trường cũ, bạn cũ, bà tôi thường lẩm bẩm như vẫn cầu kinh buổi sáng: “Rồi tất cả sẽ quen dần thôi cháu ạ, cháu sẽ có bạn mới ở Trường ĐN, bạn bè có ai ở bên nhau mãi được đâu…”

Bà tôi nói đúng. Mấy hôm đầu, bài vở ít, chúng tôi còn “chát chít” với nhau. Bây giờ đứa nào cũng phải lo học hành, tôi cũng ít nghĩ tới chúng nó hơn. Cô giáo văn bảo về nhà viết bài “Người bạn ấy sống mãi trong lòng tôi”, tôi cũng chẳng muốn viết riêng về một đứa nào trong đám bạn học cũ cả. Mà chúng nó đều sống nhăn nhở cả đấy. Tự nhiên tôi nhớ đến con mèo xấu số của nhà tôi. Nó đã chết cách đây gần một năm, trong một đêm mùa đông.

Dạo ấy, khu tập thể của chúng tôi không biết lũ chuột từ đâu kéo về mà nhiều thế. Gia đình tôi sống trong một căn hộ trên tầng 4 của một dãy nhà lắp ghép cũ kỹ. Ban ngày, chuột leo trèo trên ống nước, trên sân thượng, ban đêm chúng đuổi cắn nhau chí chóe trên bể treo đựng nước, cả nhà tôi mất ngủ vì chuột. Cuối cùng mẹ tôi quyết định nuôi mèo.
Sợ nhà tôi không biết chăm mèo “mẫu giáo”, bà tôi mang cho toàn mèo nhỡ. Vì không quen được với chủ mới, cả 3 con mèo trước đều chỉ ở nhà tôi được mấy hôm rồi đi mất tăm, mất tích. Chỉ có con mèo thứ tư là ở lại. Tôi nhớ, hôm bà ngoại tôi mang đến, nó chỉ nhỏ bằng nắm tay. Bà tôi bảo đây là giống mèo tam thể, vì nó có ba màu trắng, vàng và đen. Mấy hôm đầu, nó còn nhút nhát, cứ trốn biệt dưới gầm tủ lạnh, tôi phải gọi “miu, miu” mãi nó mới chịu chui ra. Rồi cũng quen, cả nhà tôi gọi nó là con “Miu”.

Nhà tôi có 4 người: bố mẹ tôi, anh trai tôi và tôi. Từ hôm có con Miu, nhà tôi như có thêm một thành viên nữa. Mẹ tôi lại thêm một việc: hàng tuần mua cá cho Miu. Còn tôi nhận nhiệm vụ ngày hai lần dằm nhỏ cá trộn với cơm cho Miu ăn và thay chậu xỉ than hàng ngày. Bố mẹ tôi đi làm, vắng nhà từ sáng đến tối. Anh trai tôi cũng suốt ngày hết học ở trường, lại học ôn thi ở ngoài. Chỉ có tôi với con Miu ở nhà nhiều nhất.

Suốt từ năm tôi học lớp 1 đến lớp 5, ngày nào cũng vậy, hễ nghe tiếng bước chân tôi đi học về là Miu lại chạy ra, miệng kêu “meo, meo”, dụi đầu vào chân tôi, ra cái vẻ nhớ nhung lắm. Những hôm bị điểm kém, sợ bố mẹ mắng, đi học về tôi buồn thiu, con Miu như cũng muốn chia sẻ, cứ quanh quẩn bên tôi. Còn những hôm tôi được cô giáo khen, về nhà với bộ mặt tươi tỉnh, Miu cũng xăng xớn chạy ra, chạy vào, cứ y như là nó cũng được cô cho điểm cao vậy.

Cứ thế suốt 5 năm trời, tôi và con Miu cứ quấn quýt bên nhau. Có hôm hè, nắng nóng như lửa, tôi đi Công viên Lênin, vớt được cả một xâu cá nổi, con Miu được cả tuần no nê. Có hôm vào nửa đêm, con Miu cứ chạy ra, chạy vào, kêu toáng toàng. Cả nhà tôi phải thức dậy. Thì ra Miu vừa lập chiến công, săn được một con chuột nhắt, muốn khoe chiến lợi phẩm.

Miu đứng trên ban công nhà tôi cũng cất tiếng kêu, nghe não nề khác thường. Rồi nó bỏ nhà đi bụi đời mất cả tuần. Mẹ tôi bảo có lẽ nó đã bị bán cho cửa hàng “tiểu hổ”, nhà mình phải tìm con mèo khác thôi, không thì lũ chuột lại kéo đến. Tôi thì bảo chắc nó chỉ đi đâu mấy hôm, rồi nó lại về.
Và con Miu về thật. Chỉ có mấy ngày xa tôi mà trông nó thiểu não quá chừng. Lông nó xù xì, người nó gầy tong teo, mặt mày ủ rũ ra chừng cũng biết ăn năn, hối lỗi. Tôi phải mang xà phòng kỳ cọ cho nó mất cả buổi, rồi cho ăn bù mấy hôm, Miu mới lấy lại phong độ.

Đợt rét đậm cuối năm ngoái, không hiểu sao, con Miu bỏ ăn suốt cả tuần. Tôi lấy cá trong tủ lạnh, nướng lại trên bếp ga, đặt trước mặt, nó lắc đầu. Tôi lấy sữa “Vinamilk” đun nóng cho nó uống, nó cũng quay mặt đi. Nó cứ tập tễnh, xiêu vẹo bước đi từng bước khó nhọc, với bộ mặt nhăn nhó đáng thương.

Tôi hiểu là nó đang cầu cứu "Hãy làm cho tôi bớt đau đi". Tôi thương nó đến phát khóc, gọi 1080 hỏi địa chỉ bệnh viện mèo, nhưng chỉ nhận được câu trả lời “Cậu bé ơi, mèo là loài vật sống dai lắm, nó ốm vài hôm rồi mai kia nó lại khỏi. Mà đến người ốm đây còn chưa đủ bệnh viện nữa là…”. Tôi cứ sùi sụt ôm lấy nó, còn con Miu thì cứ nằm bất động, đôi mắt nhìn vào xa xăm...

Tôi nhớ như in cái buổi sáng mùa đông đáng ghét ấy. Mẹ tôi bảo con Miu chết rồi. Tôi bật dậy, nhìn con Miu nằm bất động trong cái thùng giấy lót vải rồi òa khóc. Mẹ tôi bỏ nó vào túi nhựa. Tôi bảo để tôi mang nó đi chôn. Mẹ bảo tìm đâu ra chỗ chôn mèo ở cái khu tập thể này, đến mấy cái gốc cây bằng lăng cũng bị rải bê tông hết rồi, không biết có nước nào có nghĩa trang mèo hay không. Rồi mẹ mang nó xuống cái xe rác ở đầu nhà tập thể.

Tôi đã vào lớp 8. Bà tôi lại mang cho nhà tôi con mèo khác, nhưng tôi chẳng bao giờ quên được đôi mắt đờ đẫn của con Miu nhìn tôi trong cái đêm mùa đông năm ngoái với những đợt gió cứ mang hơi lạnh về từ những miền xa lắc, xa lơ...




Một người bạn đã gửi cho nhà phê bình Phạm Xuân Nguyên bài văn trên với lời nhắn sau:
"Tôi gửi ông bài tập làm văn của con trai tôi, học lớp 8, đề bài cô giáo cho là: “Người bạn ấy sống mãi trong lòng tôi”. Trước khi làm bài, nó cũng đã hỏi tôi và tôi đã gợi ý cho nó viết về con mèo. Tôi cũng đã cho nó tham khảo bài văn viết về con chó, được người Việt mình truyền tụng như là bài văn hùng biện nhất mọi thời đại!

Cô giáo cho nó điểm 4 với lời phê: “Lạc đề, Người bạn ấy sống mãi trong lòng tôi”, không có phần mở bài”. Cậu con tôi có vẻ buồn. Tôi bảo nó đừng cay cú điểm chác. Nhưng thực sự tôi cũng thấy có lỗi với nó. Mong ông đọc qua và cho tôi lời khuyên. Tôi vẫn nghĩ lẽ ra cô giáo có thể cho nó 6, 7 điểm”.

Tôi thấy mình đã khôn lớn


 Chiều tà, trong lúc tìm thêm tài liệu tham khảo của bài văn sắp tới, tôi tình cờ tìm được một phần trong bài viết khá ấn tượng của một nhà báo nọ...



Một buổi sáng thức dậy, tôi nhìn bóng mình trong gương rồi ngỡ ngàng với chính mình. Tôi đây ư? Đâu rồi cái hình ảnh con nhỏ thấp bé, nghịch ngợm, suốt ngày chạy lăn xăn khắp nhà... Trước mắt tôi giờ đây là một cô gái cao lớn, khoẻ mạnh, đầy tự tin và có phần chững chạc. Tôi đã lớn rồi sao?

Tôi thấy mình đã khôn lớn.

Có lẽ, theo năm tháng, suy nghĩ của con người cũng có phần thay đổi. Tôi không còn thích những nơi quá ồn ào, đông đúc; không còn thích những game điện tử mà tôi từng nghĩ sau này lớn sẽ dành hết thời gian để luyện tập; không còn thích những cuốn truyện tranh vớ vẩn hay sưu tầm đĩa của những bộ phim hoạt hình... Tôi thích những gì trầm lắng hơn, sâu sắc hơn. Tôi bắt đầu viết nhật kí, vẽ tranh khi vui cũng như khi buồn; tôi sẵn sàng vắt sạch nước mắt khi xem một bộ phim hoặc một cuốn sách cảm động hay dành hàng giờ ngồi ngắm một cơn mưa buồn về chiều quen thuộc trên mảnh đất cao nguyên Đà Lạt. Chỉ vài năm trước thôi, tôi sẽ sẵn sàng làm bất cứ việc gì đơn giàn là vì tôi muốn mà không cần biết hậu quả sẽ ra sao. Nhưng bây giờ, mỗi lời nói, mỗi việc làm đều được tôi suy nghĩ, chọn lọc kĩ càng. Lẽ nào, tôi đã lớn rồi sao?

Tôi thấy mình đã khôn lớn.

Trước đây, tôi đã từng làm ba mẹ phải buồn, rất buồn và vô cùng thất vọng, lúc đó tôi không hề có ý thức về việc tôi làm tổn thương họ ra sao. Còn lúc này đây, nếu cho tôi một đề văn " Nếu có một điều ước bạn sẽ ước gì?" tôi sẽ đặt bút mà viết không cần suy nghĩ, tôi ước có thể làm thời gian quay trở lại để tôi sửa chữa mọi lỗi lầm ngốc nghếch tôi đã gây ra, tôi thực sự ý thức được việc tôi làm gây tổn thương những người yêu thương tôi đến nhường nào.

Tôi thấy mình đã khôn lớn.

Có ai đó đã hỏi tôi:" Bạn nghĩ gì vế tương lai của mình?" nếu là trước đây, tôi sẽ sẵn sàng trả lời việc tương lai thì cứ để sau này hãy tính, suy nghĩ nhiều chỉ thêm nhức đầu. Nhưng giờ đây, tôi biết, tất cả những gì tôi học được, làm được hôm nay có ảnh hưởng rất lớn, nó là nền móng vững chắc, là chiếc chìa khoá để tôi mở cánh cửa tương lai của chính tôi. Phải chăng, tôi đã lớn?

Tôi thấy mình đã khôn lớn không chỉ về thể chất mà là trong cả tâm hồn. Tôi thấy mình khôn lớn trong từng suy nghĩ, từng lời ăn, tiếng nói, cả trong cách cảm nhận cuộc sống. Ai cũng từng mắc lỗi, nhưng người chiến thắng là người không chạy trốn mà sẵn sàng đối diện, sẵn sàng sửa đổi. Tôi đã lớn lên từ sự nghiêm khắc có phần độc đoán của ba, tình yêu thương dịu dàng của mẹ. Có lẽ, tôi đã lớn thật rồi.